Đại Kỷ Nguyên

Vì sao Phật Tổ ‘bắt’ Đường Tăng trải qua 81 nạn mới chịu ban chân kinh?

Năm nào vâng mệnh thánh quân,
Quê hương từ biệt rời chân cõi ngoài
Sáng trèo non đón gió trời,
Chiều về gối đá ngủ nơi mây mù.
Gói khăn nghìn dặm xông pha,
Đường xa lặn lội biết là bao năm.
Sắt son quyết chí cầu kinh,
Như Lai yết kiến thỏa tình từ đây.

Trải qua bao nhiêu lần nóng lạnh, kể sao hết những nếm gió nằm sương, thầy trò Đường Tăng vượt qua 81 nạn mới thỉnh được chân kinh, về phương Đông hồng dương Phật Pháp. Độc giả yêu mến Tây du ký* đã bao giờ tự hỏi, vì sao thầy trò Đường Tăng phải nếm trải đủ 81 nạn mới được ban chân kinh? Vì sao Phật Tổ không ngay từ đầu lệnh cho Bồ Tát Quán Âm mang kinh tạng đến Trường An để chúng sinh sớm đắc độ?

Bản thân Tôn Ngộ Không cũng từng băn khoăn về điều này. Ở hồi thứ 77 “Yêu ma lừa bản tính, Nhất thể bái chân như”, mấy thầy trò gặp đại nạn ở thành Sư Đà. Khi nghe tin Đường Tăng đã bị yêu quái ăn thịt, Ngộ Không “rầu rĩ thê thảm, suy nghĩ trước sau, lòng tự hỏi lòng:

– Việc này là Đức Phật Như Lai ở cõi cực lạc, do nhàn rỗi chẳng có việc gì mà làm, mới viết ra bộ kinh Tam Tạng đây mà! Nếu Đức Phật có lòng khuyến thiện, thì lẽ ra phải đưa sang phương Đông, lại không lưu truyền muôn thuở sao? Đằng này không chịu đưa sang, lại bắt bọn ta phải đến lấy, có biết đâu phải vất vả gian nan trèo đèo lội suối để rồi tới đây bỏ mạng! Thôi! Thôi! Lão Tôn phải dùng phép cân đẩu vân tới gặp Như Lai nói rõ đầu đuôi. Ngài mà chịu đưa kinh cho ta mang về phương Đông thì một là thiện quả được ghi công, hai là bọn mình cũng thỏa lòng. Nếu ngài không đưa cho mình, thì mình bảo ngài niệm “túng cô nhi chú”, cởi chiếc vòng ra, mình trả lại cho ngài rồi trở về bản động xưng vương xưng bá, ăn chơi thỏa thích”.

Vậy Đức Phật có thật do “nhàn rỗi” mà bảo Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh không? Điều này trong Tây du ký, hồi thứ tám “Phật tổ tạo kinh truyền cực lạc, Quan Âm vâng mệnh đến Tràng An” đã có lời giải đáp.

“Như Lai giảng pháp xong, lại nói với mọi người rằng:

– Ta xem trong bốn đại bộ châu, chúng sinh thiện ác có khác nhau: Người Đông Thắng Thần Châu tôn trời kính đất, tâm khí thanh sảng. Người Bắc Câu Lư Châu tính thích sát sinh, ăn nói hồ đồ, tình sơ tính vụng; chẳng được việc gì. Người Tây Ngưu Hạ Châu thì không tham không giết, dưỡng khí nuôi thần, tuy chưa được vào bậc thượng chân, nhưng mọi người được hưởng thọ. Duy có người Nam Thiệm Bộ Châu tham dâm gây họa, hay giết hay tranh, chính là nơi đánh nhau cãi cọ, ác độc thị phi. Nay ta có ba tạng chân kinh có thể khuyên họ làm việc thiện.

Các vị Bồ tát nghe nói chắp tay đảnh lễ, bước tới gần tòa sen hỏi rằng:

– Phật tổ có ba tạng chân kinh nào? 

Như Lai đáp:

– Ba tạng chân kinh của ta, một là Pháp tạng, bàn về trời; hai là Luận tạng bàn về đất; ba là Kinh tạng độ cho ma quỷ. Ba tạng gồm ba mươi lăm bộ, cả thảy một vạn năm nghìn một trăm bốn mươi quyển. Đó là kinh tu luyện chân tâm, cửa vào cõi thiện, mà ta muốn truyền sang phương Đông. Khốn nỗi chúng sinh nơi đó ngu xuẩn hủy báng chân ngôn, không biết yếu chỉ trong pháp môn của ta, coi thường cả chính tông du già. Nay làm sao có được một người có pháp lực sang phương Đông tìm một thiện tín, bảo người ấy chịu đựng gian khổ, vượt qua muôn núi nghìn sông, đến chỗ ta cầu lấy chân kinh, để lưu truyền bên phương Đông mãi mãi, khuyến hóa cho chúng sinh, thì đó là một phúc duyên cao rộng như núi, việc thiện sâu như bể vậy đó. Có ai dám chịu đi một chuyến không?

Khi ấy, Quan Âm bồ tát bước tới gần đài sen, lạy Phật tổ ba lạy, rồi nói:

– Đệ tử bất tài, xin sang phương Đông tìm người lấy kinh”. 

Lời của Phật Tổ đã làm rõ một điều: Ba tạng chân kinh chính là để khuyến hoá chúng sinh, khuyên làm việc thiện, chỉ đạo tu luyện chân tâm. Hiềm một nỗi chúng sinh nơi đó ngu xuẩn, hủy báng chân ngôn, coi thường chính giáo, nên mới cần một bậc thiện tín chịu đựng gian khổ, cầu lấy chân kinh. Nếu như kinh Phật dễ dàng có được, bày bán đầy đường, thì chúng sinh tối tăm ngu muội sẽ không biết trân quý, coi kinh Phật cũng chỉ như con cá mớ rau. Như vậy, Đường Tăng phải trải qua 81 nạn mới thỉnh được chân kinh, lý do thứ nhất chính là để chúng sinh phương Đông thấu hiểu sự trân quý vô vàn của Phật Pháp.

Quả vậy, trong hồi thứ 64 “Núi Kinh Cức Ngộ Năng gắng sức, Am Mộc Tiên Tam Tạng làm thơ”, khi được thỉnh giáo về Thiền Pháp, Đường Tăng đã nói với ba ông già mộc tinh rằng: “Than ôi, nhân thân khó thành, Trung thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp. Trọn vẹn được cả ba điều ấy thì may mắn nào bằng”. Sau này khi Đường Tăng đem được chân kinh về bản quốc, Hoàng đế Đường Thái Tông nghe kể về nỗi gian nan của hành trình thỉnh kinh cũng cảm thán khôn nguôi. 

Chữ Kinh 經 trong tiếng Hán ngoài ý nghĩa là kinh Phật, kinh điển, đạo lý bất di bất dịch, còn có một nghĩa nữa là chịu đựng, nếm trải, kinh qua. Ví như “kinh đắc khởi khảo nghiệm” (經得起考驗) nghĩa là đã chịu đựng được thử thách. Chữ Kinh 經 này bên trái là bộ Mịch (糹: sợi tơ nhỏ), bên phải là chữ Nhất (一 : một), bộ Xuyên (巛: sông) và chữ Công (工: công trình), khiến ta liên tưởng tới hình ảnh một người trải một phen gian khổ, vượt muôn núi nghìn sông, cắt đứt hết những sợi tơ lòng phiền não, cuối cùng viên mãn thành công. 

Chúng ta đều biết, Đường Tăng trải qua đủ 81 nạn, thỉnh được chân kinh mang về phương Đông, tuy chưa đọc những kinh sách ấy nhưng đã tu thành chính quả, được Phật Tổ phong chức Chiên Đàn Công Đức Phật. Hay như Tôn Ngộ Không, dọc đường chẳng mở sách tụng kinh bao giờ, cuối hành trình cũng đã thành Đấu Chiến Thắng Phật. Thế mới biết, cuốn “Kinh” chân thật mà thầy trò Đường Tăng đã thỉnh được có lẽ chính là hành trình đằng đẵng vượt trùng nan, vào sinh ra tử, trải hết đắng cay ngọt bùi, kiên định chính tín vào Phật Pháp. Nhờ kinh qua khổ nạn mà người tu luyện diệt trừ ma chướng, gội rửa bụi lòng, buông bỏ chấp trước, tìm lại được bản tính thuần chân, thuần thiện. Như trước núi Bình Đính cao vòi vọi, Tôn Ngộ Không đã từng nói với sư phụ rằng:

“Trong tâm quét sạch bẩn
Bên tai rửa bụi trần.
Không nhận điều đau khổ
Khó làm bậc thượng nhân”.

Ảnh: Phim Tây Du Ký 1986

*Ảnh minh hoạ: Phim Tây du ký (1986). Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học.

Thanh Ngọc

Exit mobile version